THĂNG TRẦM, VINH NHỤC

Lê Quốc

Đất nước có lúc thịnh, lúc suy. Con người, lúc vinh, lúc nhục… Cuộc sống khi thành công, khi thất bại. Có lúc lên cao, cũng có hồi xuống thấp. Sống trong xã hội, con người có khi được, khi thua. Quan trường cũng có hồi lên voi xuống chó. Đó là chuyện thường tình trong xã hội loài người. Nhưng, nỗi vinh nhục thăng trầm đậm nét nhứt là nỗi vinh nhục của những bậc khai quốc công thần thời phong kiến bên cạnh những đắc chí ca vang như gió nổi, mây bay của Lưu Bang cùng những thở than hào hùng của người anh hùng mạt lộ Hạng Vũ. Về những bề tôi lương đống của triều đình, người đời sau thường cô đọng lời nhận xét của mình như sau:

“Cao điểu tận, lương cung tàng; Giảo thố tử, cẩu tẩu phanh; Địch quốc phá, mưu thần vong”. (Chim bay cao đã hết, cung tốt bỏ đi; Thỏ khôn chết rồi, chó săn phải giết; Địch quốc phá, công thần tiêu vong).

Hỡi những bề tôi lương đống, những đại thần vào sinh ra tử, hãy xem gương Văn Chủng và Phạm Lãi, Trương Lương, Tiêu Hà, Hàn Tín và Quý Bố, Bành Việt v.v, Tiền quân Nguyễn văn Thành đời Gia Long ; hùng biện hơn nữa là :

1.- Thương Ưởng, một thiên tài an bang tế thế, động binh thì thêm đất, hưu bình thì thêm giàu, an định xã hội bằng “Ngũ gia liên bão” giúp nhà Tần dựng nghiệp đế. Tài ba xuất chúng, công lớn trùm thiên hạ dưới gầm trời có một không hai. Rốt cuộc bị tội xé xác.

2.- Bạch Khởi, một tướng tài, cầm mấy vạn quân, trận đầu hạ thành Yên, đốt Di Lăng, trận hai phía Nam kiêm tính Thục Hán, vượt qua Hàn, Ngụy, đánh Triệu, phía Bắc chôn bại binh ở Mã Phục, làm cỏ hơn 4 mươi vạn người, còn lại giết chết hết ở chân thành Trường Bình, máu chảy thành sông, sôi vang như sấm, dựng nghiệp bá cho nước Tần, một tay thu phục hơn 70 thành. Người như thế, tài nhường ấy, công nhường ấy. Thế mà, khi công thành thì được ban ân tự sát bằng gươm ở Đỗ Bưu.

3.- Ngô Khởi, “sát thê cầu tướng”, lập công danh : trong, dẹp an nịnh thần, sa thải kẻ bất tài vô dụng, tạo an ninh triều nội, ngoài đập tan nước Trần, nước Thái, binh lực chấn động thiên hạ, uy thế áp đảo chư hầu. Công thành thì bị ngựa xé xác. Còn rất nhiều gương công thành mà thân không thoái thì tiêu vong. Một bức tranh vô cùng khốc liệt, diễn tả nỗi thăng trầm vinh nhục đời phong kiến. Những bậc công thần tài năng xuất chúng, dũng lược siêu quần ! Hãy xem gương xưa mà tự cứu lấy mình trước bản án tử hình hay lưỡi gươm Damoclès treo lủng lẳng trước mặt, nếu không treo ân từ quan, trở về tiêu dao ngày tháng với hạc nội mây ngàn.

Lịch sử nước ta cũng như lịch sử Trung Hoa, có không biết bao nhiêu tấm gương những công thần cả đời mang tài năng, lòng trung tín, phục vụ cho nhà vua nên nghiệp đế, để rồi bị chính nhà vua trở mặt quay lại giết cả ba họ nhà đại thần, một cách không thương tiếc. Vì lòng ích kỷ, ganh ghét, lo sợ chiếc ngai vàng của mình bị sụp đỗ, nhà vua hành xử như một kẻ tiểu nhân phản trắc, “ăn cháo đá bát”, bội bạc quên tất cả công lao hạn mã của những người đã cùng với mình gối đất nằm sương, vào sinh ra tử dựng lên cái cơ nghiệp mà bây giờ mình chễm chệ trên ngôi Hoàng Đế. Nhan nhãn khắp nơi, thời phong kiến, thời hiện đại, Tự Do Dân Chủ hay Cọng Sản chủ nghĩa, đều có những cảnh đau lòng nầy. Còn những tướng lãnh, những mưu thần trong chiến trận, cũng có lúc vinh quang tột đỉnh, nhưng có hồi xuống tận đất đen. Đó là cảnh: “lên voi xuống chó chốn quan trường”.

Sau đây là vài trường hợp diển hình :

1.-Lưu Bang vốn là một tên đình trưởng làng Phong Bái, lười biếng, dốt nát, cờ bạc, mê gái, nhưng là người có chí lớn, nhưng rất gian manh, xảo quyệt, trí trá, quyền biến, nhứt là biết trọng dụng nhân tài. Lưu Bang cũng áp dụng nghệ thuật dùng người (như Hồ chí Minh bắt chước Quản Trọng nước Tề “ trăm năm trồng người”) để thu phục Hàn Tín, Trương Lương, Trần Bình, Tiêu Hà, Bành Việt, Anh Bố) . Đó là những mưu thần tài giỏi, những tướng lãnh anh dũng, trung kiên, xông pha trận mạc, hết lòng phò tá, dựng nên cơ nghiệp nhà Hán. Tài dụng binh như thần nhưng cái nhìn nông cạn, không thấu hiểu bụng dạ Lưu Bang của danh tướng Hàn Tín. Rốt cuộc cái tài có một không hai dước gầm trời nầy chính là nguyên nhân đưa đến cái chết tru di tam tộc nhà Tín. Hãy nhìn tài năng Hàn Tín trong giai đoạn đánh Nam dẹp Bắc phò tá Lưu Bang.

Lúc “Hán Sở tranh hùng”, thiên hạ chưa quy về nột mối, Hàn Tín, một tướng lãnh tài ba, thao lược, đánh Nam dẹp Bắc, bách chiến bách thắng. Nhưng, nó cũng là mầm móng cái chết của mình đối với Lưu Bang. Hãy nghe Hàn Tín trả lời Vũ Thiệp, thuyết khách của Hạng Vũ : Hán vương chiêu hiền đãi sĩ, trọng dụng nhân tài: “Hán vương thường nhường cơm cho tôi ăn, cởi áo đẹp cho tôi mặc, lời tôi nói được nghe theo, mưu tôi bày được áp dụng, cho nên: “mới được như ngày nay”. Tôi không thể làm kẻ vô ơn mà phản lại Hán Vương được. Hàn Tín từ chồi lời khuyên của Vũ Thiệp. Và Hàn Tín đem tài năng xuát chúng của mình xua quân chiếm nước Triệu, hiếp chế nước Yên, bình định nước Tề là nước giàu có, dân cư đông đúc, lương thảo dồi dào. Lúc bây giờ Hàn Tín dưới trướng có 30 ngàn quân. Uy danh trùm khắp nước. Thế tam phân thiên hạ hiện ra rõ rệt hơn bao giờ hết. Một tay biện sĩ tài ba là Khoái Triệt xin yết kiến Hàn Tín, nói: “Tôi thường nghe dũng lược làm cho đấng nhân chủ gờm thì thân nguy, công trạng bao trùm thiên hạ thì không thể thưởng cho xứng được”. Mà dũng lược và công trạng của túc hạ, tôi xin phép nói: “ Tướng quân vượt Tây Hà, cầm tù Nguỵ Vương, bắt sống Hạ duyệt, dẫn quân xuống Tịnh Hình, mặt trời chưa cao dã phá hai mươi vạn quân Triệu, giết Thành an Quân, chiếm đất Triệu, hiếp chế Yên, bình định Tề. Phía Nam bẻ gẫy hai mươi vạn quân Sở. Phía Đông giết Long thư, phía Tây báo công với Hán Vương. Công trạng như vậy lá có một không hai dưới gầm trời nầy, mà dũng lược như vậy là siêu quần xuất chúng. Nay túc hạ “đeo” cái uy chúa gờm, “ôm” cái công chẳng thể thưởng xiết được về với Sở, người Sở không tin; về với Hán, người Hán run sợ.Với công trạng, dũng lược nhường ấy, Túc hạ toan về đâu bây giờ! Kể thế vị là bầy tôi, mà kể uy danh thì làm chúa ngán, danh vọng lại cao trùm đời, tôi trộm lấy làm nguy cho túc hạ!”.

Hàn Tín do dự không quyết đoán. Một mặt, vì tiếc cái công lao hạn mã cùng với Lưu Bang vào sinh ra tử. Cái công trạng trùm trời đất phò tá Hán vương lên ngôi báu, lẽ nào Hán vương phản bội, ăn cháo đá bát như phường vong ơn bội nghĩa hay sao? Hàn Tín không nhìn thấu tâm địa của Lưu Bang. Nhường cơm xẻ áo chẳng qua là cái tiểu xảo để thu phục lòng người, để Hàn Tín đem hết tài sức phục vụ cho mình, chứ không phải cái tâm lành, cái tình nghĩa yêu thương người duới trướng, Mặt khác, nếu xưng vương nước Tề, chia ba thiên hạ không thành công thì uổng phí một đời phục vụ Hán vương. Nghĩ vậy, Hàn Tín từ chối lời thuyết phục của Khoái Triệt, về sau dẫn đến cái chết tru di tam tộc nhà Tín dưới tay vợ chồng Lưu Bang và Lữ Hậu.

Hán Tín không dám xưng vương, hùng cứ nước Tề, chia ba thiên hạ. Cho nên Hàn Tín vẫn là bề tôi của Hán Vương. Lưu Bang cùng với Hàn Tín, Bành Việt ở đất Lương và các mưu sĩ xuất chúng Trương Lương Trần Bình, Tiêu Hà, tiến đánh Hạng Vũ. Lưu Bang dùng lời ngon ngọt thuyết phục Hạng Vương lý kết Hoà ước Hồng câu. Theo hoà ước nầy, hai bên cho giải giới binh sĩ cho về quê quán xum họp gia đình sau bao nhiêu năm chinh chiến. Nhưng Lưu Bang chỉ cho giải giới binh sĩ già nua, bệnh tật và giữ lại binh sĩ tráng kiện, thiện chiến đem giấu vào một nơi bí mật.

Lực lượng phia Hạng Vương bây giờ chênh lệnh. Lưu Bang thừa cơ hội tung binh sĩ thiện chiến của mình vây chặt mấy vòng nơi thành Cai Hạ. Hạng Vũ cùng 800 binh sĩ trung kiên cố thủ thành Cai Hạ. Đang đêm Hạng Vương cho binh sĩ hát bài ca nước Sở cùng lúc Trương Lương thổi tiếng tiêu thê thiết từ trên núi theo gió bay vào thành Cai Hạ làm rúng động đám tàn binh của Hạng Vũ nhớ nhà, bỏ trốn gần hết. Hạng Vũ người anh hùng mạt lộ, cho rằng thời đã hết, cất tiếng thở than với lời lẽ hào hùng:

Lực bạt sơn hề, khí cái thế
Thời bất lợi hề, truy bất thệ
Truy bất thệ hề, khả nại hà
Ngu hề Ngu hề, nại nhược hà!

Sức dời núi chừ, khí trùm đời
Thời đã hết chừ, con truy không chạy
Con Truy không chạy chừ, biết làm sao đây
Ngu Cơ, Ngu Cơ nàng hỡi! biết làm sao ?

Ngu Cơ nghĩ rằng mình sẽ làm bước cản làm Hạng Vũ khó thoát thân, xuất kỳ bất ý rút dao tự sát. Hạng vũ phá vòng vân chạy đến bờ sông Ô Giang, tự sát cho tròn khí tiết của một anh hùng. Chết mà không nhục!

Trong khi Lưu Bang bình định thiên hạ, lên ngôi xưng là Hán Cao Tổ và bắt đầu cuộc thanh trừng:

– Lột chức tước, binh quyền Hàn Tín ở đầm Vân Mộng, giáng chức cho làm Hoài âm Hầu.

– Thảo phạt Lương Vương Bành Việt.

– Diệt trừ Hoài nam Vương Anh Bố.

Thảo trừ xong Hoài nam Vương Anh Bố, trên đường trỏ về ngang qua quê hương làng Phong Bái, Hán cao Tổ cho mời các phụ lão, những người có tâm tiếng trong làng dự yến ẩm. Tiệc gồm có 120 em bé ca hát trợ hứng, Lưu Bang hừng chí gảy đàn hát bài Đại phong ca vô cùng đắc ý như gió nổi lên ào ào, mây bay lan toả, uy danh khắp nước về thăm cố hương:

Đại phong khởi hề, vân phi dương
Uy gia hải nội hề, qui cố hương

Gió lớn thổi dậy chừ, mây bay lan toả
Uy tràn khắp nước chừ, về quê cũ

Đó là lúc vinh quang tột đỉnh của Lưu Bang và nỗi nhục thất bại của Hạng Vũ. Nhưng ai đem thành bại mà luận anh hùng? Năm tướng lãnh VNCH tuẩn tiết vì mất nước, không phải là những vị anh hùng danh lưu thiên cổ hay sao? Đại tá Hồ ngọc Cẩn hiên ngang, anh dũng trước họng súng của kẻ thù, dõng dạc nói rằng: “Nếu chúng tôi thắng các anh, chắc chắn chúng tôi không đối xử các anh như các anh đối xử chúng tôi”. John Mac Cain, người phi công anh dũng lái phi cơ chiến đấu bị bắn rớt và bị giam tại ngục Hoả lò Hà Nội vẫn là một anh hùng. Nguyễn thái Học và 12 liệt sĩ hiên ngang trên đoạn đầu đài, chết vì Tổ Quốc, không phải là chết nhục, ngược lại là cái chết vinh quang, cái chết vì nước, vì Tổ Quốc. Tất cả đều là những anh hùng danh lưu sử sách.

Ai đem thành bại mà luận anh hùng? Lịch sử Đông Tây – dĩ nhiên là trừ chế độ Cộng sản – đều đánh giá người anh hùng không căn cứ trên sự thành bại mà căn cứ vào lòng yêu nước thương dân của các vị đó.

Lịch sử tái diễn. Dĩ nhiên, khung cảnh khác, thời gian khác, diễn viên khác. Lưu Bang gạt Hạng Vũ ký hoà ước Hồng Câu thời Hán Sở Tranh Hùng. Mấy ngàn năm sau Hồ chí Minh gạt Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu, hưu chiến cho binh sĩ về quê ăn Tết năm 1968. Tin bằng lời, Tư Lệnh quân đội VNCH cho phép một số lớn binh lính nghỉ ngơi, xum họp gia đình trong ba ngày Tết. Chính Tổng Thống cũng về quê vợ ở Mỹ Tho, ăn Tết.

Thừa dịp nầy, Hồ chí Minh xua quân miền Bắc giả làm quân Giải phóng miền Nam tấn công mấy mươi tỉnh thành của nước VNCH. Cuối cùng, binh sĩ miền Bắc gồm những thiếu niên không kinh nghiệm chiến đấu lại lạc dường nên chết hay bị bắt sống quá nhiều. Quân Bắc Việt bị đánh bật ra khỏi các thành phố miền Nam.

Hoà ước Hồng Câu tái diễn tại miền Nam Việt Nam năm 1968. Nhưng khác hẳn là Hồ chí minh không chiếm được Saigon. Không có sự nổi dậy của dân chúng miền Nam. Lực lượng quân Bắc Việt giả làm quân giải phóng bị tiêu diệt gần hết.

***

Nhìn lại thế gian, vinh nhục thăng trầm, lên voi xuống chó chốn quan trường, người trong cuộc mới thắm thía cảnh tống cựu nghinh tân:
Nghênh tân thì tiền hô hậu ủng, võng lọng xênh xang, kẻ đón người đưa tưng bừng náo nhiệt, bằng hữu sơ giao, đến người chưa từng quen biết, cũng cúi rạp mình xuống siết chặt bàn tay như thân mật tự thưở nào!

Lúc mất chức thất sũng, thì cảnh tống cựu vắng hoe, bạn bè thưa thớt. Họa hoằn có vài người tiễn đưa, cũng có vẽ lạnh lùng, miễn cưỡng.

Đời là thế. Thói đời cũng thế. Phù thịnh chứ ai phù suy…Đời có mấy ai nhắc đến thầy giáo Trần văn Hương mà chỉ nhắc đến Thủ Tướng, Tổng Thống Trần văn Hương. Thế nhân xưa nay đều thế cả. Phù thịnh, biết đâu rồi có ngày nhờ cậy chuyện nọ chuyện kia. Chỉ ba hoa, chích chòe là mình quen với bà kia ông nọ hiện là người đương quyền, cũng được thơm lây, bạn bè nể nang, quan trên trông xuống, làng nước ngó vào. Ai đi làm thân với kẻ mất chức, té ngựa…Ăn cái giải gì, có khi còn bị vạ lây. Ba mươi tháng tư đổi đời cay nghiệt: Ông xuống thằng, thằng lên ông, thằng ngu lên đè đầu thằng khôn, thằng dốt chỉ huy thằng biết chữ. Thằng ăn cắp lớn xử thằng ăn cắp nhỏ, cảnh đời lên voi xuống chó xảy ra nhan nhãn khắp nơi.

Gần đây, tại xứ Hoa kỳ cũng xảy ra cảnh đời tương tự khiến cho ai có chút lòng vị tha cũng ngậm ngùi thương cảm..

2.- Thống Đốc Tiểu Bang California Ông Arnold Schwarzenegger mới đây, đã đăng một tấm hình ông đang co ro nằm ngủ ngoài đường dưới chân tượng của chính mình.

Bức tượng của chính mình với dòng tâm trạng ngắn ngủi: “How Times Have Changed ” ). Ảnh của Arnold Schwarzenegger nằm ngủ ngoài đường ngay dưới chưn tượng của chính ông tại Trung Tâm hội Greater Columbus Ohio, Mỹ. Câu tâm sự bốn chữ ngắn ngủi :”How Times Have Changed” (” Thời gian đã thay đổi ra sao “).

Bốn chữ ngắn ngủi đó và một đêm nằm ngủ ngoài đường, cựu Thống Đốc tiểu bang California chắc chắn muốn gửi gấm một tâm sự gì đó. Phải chăng tác giả muốn nói mình đã già ? mình đã không còn đường đường là một Thống Đốc tiểu bang, lên xe xuống ngựa, có kẻ hầu người hạ, có nhân viên dưới trướng, quyền uy một thởi, danh vang một thưở. Còn bây giờ xuống chức, thiên hạ lạnh nhạt, bạn bè vắng hoe, không ai thăm hỏi một lời, nằm ngủ co ro lạnh lẽo ngoài đường. Một cái phòng để nghỉ qua đêm, cũng không có. Khác hẳn với cảnh rộn rịp, kẻ đưa mgười đón lúc lên chức Thống Đốc.

Không phải ông nghèo đến không đủ tiền thuê một phòng ngủ.Nhưng ông muốn ngủ ngay dưới chưn tượng mà người ta đã vinh danh mình, khi ông là Thống Đốc và bây giờ nằm ngủ ngòai đường, khi ông dã rời khỏi chính trường. Bức ảnh làm nổi bật hai cảnh đời : Khi lên voi và hồi xuống chó. Và cũng để nói lên cái nhân tình thế thái, thói đời đen bạc trong xã hội loài người.

Đó là những cảnh tượng thường xảy ra trong chính trường, quan trường và cả trong mọi tầng lớp xã hội.  Khi lên chức thì võng lọng xênh xang, xa mã rập rềnh, tiền hô hậu ủng. Lúc xuống chức thì không kèn, không trống, chẳng ngựa chẳng xe, chẳng bạn chẳng bè! Thậm chí có một vài đồng liêu rụt rè đưa tiễn nói lời từ giã nhưng cũng ngập ngừng, miễn cưỡng. Nghinh tân bao giờ cũng tưng bừng rộn rịp. Còn tống cựu thì lặng lẽ đìu hiu! May mắn còn có bà vợ già lẽo đẽo ôm gói đi theo, là niềm an ủi rồi !

Có ai trải qua cảnh tình nầy mới thắm thía cuộc đời ! Đời là thế . Thói đời cũng thế !

Càng cao danh vọng càng dầy gian nan.Ngoài cái chức vị Thống Đốc tiểu bang, Arnold còn là một tài tử điện ảnh nổi tiếng của Hollywood, một diễn diên thượng thặng phim ” The Terminator “( Kẻ hủy diệt), được trà 33 triệu USD cho vai diễn xuất phim “the Terminator III”. Doanh thu kẻ hủy diệt II năm 1991 : 500 triệu USD; kẻ hủy diệt I : 420 triệu USD . Arnold còn là một doanh gia, một nhà đầu tư, một chính trị gia uy tín,một lực sĩ thể hình. Hai lần đắc cử Thống Đốc bang California – một danh dự ít người có được.

Một vị đại nhân, dường như cảm thông nỗi buồn tình đời đen bạc và có lẽ cũng vì ngưỡng mộ tài năng của tài tử thượng thặng của nền điện ảnh Hollywood, nên đã hư cấu cho câu chuyện thêm ý nghĩa . Ông viết : Lý do của dòng trạng thái nầy không chỉ ám chỉ ông đã già mà còn ám chỉ sự thay đổi của chính quyền bang California. Khi ông còn đương nhiệm Thống Đốc bang California, chính quyền bang nầy đã cho xây dựng một khách sạn với bức tượng ông phía trước. Chủ sở hữu khách sạn đã nói với ông : ” Bất cứ lúc nào ông đến, luôn luôn có một phòng đã được đặt trước cho ông tại đây”.

Tám năm sau, khi Arnold rời khỏi chính trường, ông quay trở lại khách sạn thì người quản lý lạnh lùng nói với ông : “Ông không thể ở lại đây được vì tất cả các phòng đều đã đặt kín cả rồi”. Ông ngỡ ngàng đứng lặng hồi lâu rồi ra xe lấy một túi ngủ và nằm ngay trước bức tượng của mình.

Ông buồn bã nói lầm thầm : ” Thởi gian đã đổi thay ” thì cái gì cũng thay đổi. Quyền lực, lòng người, hoàn cảnh, thế thái nhân tình – bảng vàng bia đá – thảy đền bị gìòng thời gian cuốn trôi đi mất. Bài từ hát theo điệu Tây giang Nguyệt của Dương Thận, mở đầu truyện Tam Quốc:” Cổn cổn Trường Giang Đông thệ thủy. Lãng hoa đào tận anh hùng ” đã vẽ nên bức tranh vân cẩu của cảnh đời nầy. Chẳng có gì tồn tại mãi mãi. Biết vậy! Nhưng lòng người thay đổi là một nhát dao đâm rướm máu, một vết thương nhức nhối! Khi mình 2 lần đắc cử Thống Đốc thì thiên hạ rầm rộ dón đưa, dựng tượng vinh danh. Khi mình mất chức rời khỏi chính trường thì thiên hạ làm ngơ, chính quyền quay mặt, bạn bè xa lánh !

Thiên hạ thường chạy theo quyền lực, danh vọng, và bạc tiền khi thời thế thay đổi. Miền Nam thất thủ. Những cảnh đời ngang trái, những tình huống não lòng diễn ra trước mắt:” Thiên hạ hân hoan đều vì lợi mà đến; thiên hạ lăng xăng đều vì lợi mà đi “. ( Sử Ký Tư mã Thiên trang 77 ) . Đời nào cũng vậy. Tư bản hay Cộng sản gì cũng rứa !

Một cấp tá trong quân đội VNCH trở về sau 10 năm tù cải tạo. Giấy ra tù ghi địa chỉ nhà cũ để chờ đi kinh tế mới theo lệnh của chính quyền địa phương.Trở về lúc trời đã tối. Nhà cửa đóng then gài, ông đứng tần ngần trước cửa. Không một bóng người. Chỉ có tiếng cười khúc khích từ phía có ánh đèn lờ mờ trên lầu…Đứng lặng một hồi, không biết phải làm gì. Bỗng có một bà hàng xóm thương tình mở cửa kéo ông vào nhà, nói thì thầm: “ Tôi không dám nói, nhưng cảm thương ông nên phải nói: “ Ông phải bình tỉnh nghe. Bà kề miệng vào tai ông nói nhỏ :” Vợ ông đang hú hí với một thằng cán bộ trên lầu. Chuyện nầy xảy ra từ lâu nên tôi và cả xóm đều biết.”. Người tù cải tạo như bị sét đánh ngang tai, uất khí trào lên tận cổ. Bà hàng xóm tiếp: “ Tôi cũng không dám chứa chấp ông trong nhà. Nhà ông ở căn bìa nên có cái chái bên hông, ông nên ra đó ở tạm “. Người tù cải tạo, cõi lòng tan nát…không biết phải đi dâu, cúi đầu lặng lẽ từ giã bà hàng xóm ra cái chái bên nhà, nằm gác tay lên trán mà nghe tiếng thì thầm như những nhát dao đâm vào tim mình.

Đó chỉ một cảnh đổi thay được trưng dẫn, trong khi cả miền Nam còn không bao nhiêu cảnh thương tâm, não lòng khác.

Kẻ viết bài vốn là sinh viên của một trường cuối cùng, nằm trên đường Trần quốc Toản. Từ trong ngó ra ngoài, bên phải là Viện hóa Đạo, phía bên kia đường về phía trái, càch khoản vài trăm thước , là một cái quán thụt vào trong, mang cái tên rất lạ, rất ư là văn chương :” Sống trên đời ” ( lấy trong câu ” Sống trên đời, không ăn miếng dồi chó, xuống âm phủ không có mà ăn”) . Có lẽ chủ nhân cũng là tay lão luyện trong trường văn trận bút và cũng là người theo đạo “cây còn” nên chọn cái tên rất văn chương nhưng cũng nực mùi “rựa mận”. Trường nằm giữa hai hướng đi tương phản: Một bên cho mhững những ai đã chán chê cuộc đời, lửa lòng tắt ngũm, quỳ dưới bóng Phật đài, tụng kinh gõ mõ tu hành, mong thành những cao tăng đắc đạo, những bồ tát cứu đời…

Phía bên kia đường, dành cho những ai còn nặng nợ trần, còn ham danh vọng, mê bạc tiền, nhưng thất bại, mất chức, rớt đài, gặp gỡ nhau tại quán “Cây Còn”. Mỗi thằng một tâm sự, một hoàn cảnh: Thằng thì thất bại trên chính trường mang đầu máu trở về, thằng thì bị đào đá, mặt mũi bơ phờ, đứa thì mất nhà mất cửa vì vượt biên, thằng thì bị vợ bỏ vì tội trăng hoa, thằng thì ở chiến trường mới về, cụt mất một chân, gặp nhau trong một chiều mưa rơi rả rích… Trước dĩa “mộc tồn”, với tình bè bạn cùng cảnh ngộ, thưởng thức miếng dồi chó, gật gù nốc cạn ly nước mắt quê hương, để lãng quên cuộc đời chó má nầy. Thú vị biết bao! Quên hết thất bại, nợ nần, quên hết cảnh đời lên voi xuống chó! Mọi biến đổi thăng trầm chỉ là mây bay gió thoảng, nước chảy hoa trôi!

Ông Thống Đốc Schwarzenegger ơi ! Phải chi ông sang bên nầy cùng thưởng thức ly nước mắt quê hương sùi bọt trắng ngần và miếng dồi heo ướp xả chiên dòn, bốc khói thơm ngào ngạt (không dám mời ông xơi miếng dồi chó, vì văn hóa Tây Phương kỵ món nầy) ông sẽ lãng quên tất cà mọi danh vọng, mọi thăng trầm lên xuống, mọi lúc nghinh tân rộn rã, mọi hồi tống cựu đìu hiu ! Người ông sẽ lâng lâng sảng khoái, không cần phải nằm ngủ co ro ngoài đường dưới chân bức tượng của Ông, mà thắm thía cảnh thời gian làm vật đổi sao dời, lòng người chao đảo.

Trường cuối cùng tôi học là trường mang nhiều nghiệp chướng. Chốn quan trường lắm cành lên voi xuống chó, Có ai hoạn lộ hạnh thông suốt đời. Tất có cảnh “vẽ mặt bôi vôi”, có lần hoặc nhiều lần lên voi xuống chó. Thăng trầm dâu bể là lẽ biến thiên, là chân lý muôn đời của càn khôn vũ trụ, của cuộc sống con người.

Thản nhiên mà chấp nhận. Vấp ngã rồi dứng lên. Thất bại là mẹ thành công, nhưng thành công cũng là cha thất bại. Buồn thì có quán “Sống trên đời ” để trút bỏ nỗi niềm. Chán chê cuộc đời, lửa lòng tắt ngũm thì Viện hóa đạo kề bên – sớm chiều gõ mõ tụng kinh tìm đường giải thoát khỏi cuộc đời ô trọc phiền nhiễu nầy.

Tôi thành tâm chia sẻ thói đời đen bạc mà ông đã trải qua và cảm thông sâu sắc nỗi buồn của ông Thống Đôc và cũng là nỗi buồn thân phận hoa trôi bèo giạt, nổi trôi theo vận nước của kẻ ly hương biệt xứ như chúng tôi. Ông buồn vì thế thái nhân tình. Nhưng ông vẫn đứng vững với danh vị của một tài tử thượng thặng, rực rỡ trên vòm trời điện ảnh Holywood. Còn chúng tôi, nỗi buồn theo vận nước nổi trôi, biết bao giờ trở lại quê hương yêu dấu nghìn năm của tổ tiên để lại?!

Tháng 10 năm 2020

You may also like